“Suy đoán vô tội” là nguyên tắc trong xét xử công bằng (fair trial).
Giả thiết ban đầu đưa ra luôn là bị cáo không phạm tội. Và để chứng minh bị cáo có tội thì phải có bằng chứng vi phạm.
Nếu không tìm ra được chứng cứ thì bị cáo từ đầu đến cuối đều được xem như vô tội, trắng án.
Cách chứng minh trong tố tụng hình sự khác với chứng minh trong việc giải một bài toán ở chỗ là đáp án cho một vụ án chỉ có hai kết quả: vô tội hoặc có tội.
Nghĩa là, nếu không có tội thì được xem như vô tội. Nếu như nghi ngờ, phân vân không biết bị cáo có tội hay không, mà không tìm ra bằng chứng thì vẫn được xem như vô tội. Kết quả không thể có trạng thái lấp lửng, nghi ngờ.
Nguồn gốc của nguyên tắc này có thể bắt đầu từ Rome cổ đại, nhưng xa xưa hơn nữa là từ Phục truyền luật lệ ký 19:15:
Chứng độc chiếc không đủ cớ định tội cho người nào, bất luận gian ác, tội lỗi nào mà người đã phạm; cứ theo lời của hai hay ba người chứng, thì sự mới định tội được.
Ở đây Đức Chúa Trời rõ ràng có quy định là tối thiểu phải có hai chứng nhân.
Nếu chỉ một người là không đủ, thì xem như vẫn kết luận trắng án. Nghĩa là trong trường hợp này, Phục truyền luật lệ ký 19:15 đang đề cập đến, giả thiết ban đầu mà Đức Chúa Trời mặc định cho người bị tố cáo đó là không có tội, cho đến khi có đủ bằng chứng kết luận vi phạm.
.
Đây là luật Cựu ước, vậy có áp dụng cho Tân ước không?
Dĩ nhiên là có, vì Chúa Jesus đã kêu gọi dùng nguyên tắc này để xử lý các mâu thuẫn, hoặc trong tố tụng hình sự (Ma-thi-ơ 18:16).
Chúa Jesus thậm chí trao quyền phán quyết này cho môn đồ ngay sau đó: “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ điều gì mà các ngươi buộc ở dưới đất thì cũng sẽ buộc ở trên trời, và điều gì mà các ngươi mở ở dưới đất thì cũng sẽ mở ở trên trời.”
Hơn nữa, “Kẻ nào mà các ngươi tha tội cho, thì tội sẽ được tha; còn kẻ nào các ngươi cầm tội lại, thì sẽ bị cầm cho kẻ đó.” (Giăng 20:23)
Và môn đồ thực thi quyền này không chỉ áp dụng cho đối với loài người:
“Anh em chẳng biết chúng ta sẽ xét đoán các thiên sứ sao? Huống chi việc đời nầy!” (I Cô-rinh-tô 6:3)
Thế thì, quyền lực mạnh như vậy nếu trao cho ai đó không đủ tầm nhận thức hoặc thiếu hiểu biết luật thì sao? Hãy yên tâm vì Vua/Chủ tiệc cưới biết cách sàng lọc nhân sự (Ma-thi-ơ 22), để rồi khi ai vào ngồi ghế đưa ra phán quyết là người đã có đủ năng lực.
Vậy nếu, bản thân trong đời này không đủ khả năng đưa ra suy xét ngay trong chính việc đời này do không chịu “suy ngẫm quyển sách luật pháp này ngày và đêm”, mà cứ sống vô tư, an phận sự hiểu biết của mình tới một mức nào đó xem như đủ rồi thì có ai cho ngồi vào ghế xét xử để đưa ra quyết định liên quan sống chết không?
.
Quay trở lại chuyện bị cáo
Ai trong Kinh Thánh mà không đủ bằng chứng, nhân chứng kết tội mà vẫn bị xem là có tội? Chính vì không có bằng chứng cho nên “các thầy” mới phải bàn với nhau xem nên dùng mưu chước gì đặng bắt mà giết người đó (Ma-thi-ơ 26:4).
Ai trong Kinh Thánh bị kết tội nhưng có một người khác được báo mộng cho thấy đây là người công bình? (Ma-thi-ơ 27:19).
Ai trong Kinh Thánh là vô tội nhưng vẫn bị “bồi thẩm đoàn” (dân chúng) bỏ phiếu kết luận là có tội?
Nếu một người bị oan, Đức Chúa Trời sẽ nhanh chóng suy xét công bình cho người đó. Biết rằng Con của Đức Chúa Trời sắp chiến thắng nên kẻ thù tung ra một âm mưu cuối để sự công bình của Đấng công bình bị hủy hoại:
“Nó đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được. Nếu phải Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây mộc hình đi, thì chúng ta mới tin.” (Ma-thi-ơ 27:42)
Để phá bẫy âm mưu này, Chúa Jesus đã dùng sự khôn ngoan đặc biệt trong nhận định tình huống. Tự xác thực xem lời phán, dư luận, quan điểm nào đó có đúng bản chất với Lời của Đức Chúa Trời hay không.
Biết bao lần trong đời, bản thân anh em bị kết án, phán xét này nọ nhưng lời đó có dựa trên nền tảng luật pháp của Đức Chúa Trời không? Nếu không thì xem như những lời đó vô hiệu, không đủ thẩm quyền quy kết anh em là ai.
Ai tìm hiểu nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ biết một câu nói “Thà để mười người phạm tội thoát án còn hơn là để một người vô tội bị oan.”
Đức Chúa Trời sử dụng luật của Ngài, vì tình yêu thương, mà không để ai bị chết oan mạng.
Đến nỗi thà để cỏ lùng mọc chung với lúa mì chứ chủ ruộng nhất quyết không để các đầy tớ thiếu hiểu biết lẽ thật xử oan lúa mì của chủ.
Mà lúa mì là ai? Chính là con cái nước thiên đàng.